Pages

Subscribe:

Ads 468x60px

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

Bệnh gạo lợn: Những điều cần biết

Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam – Bệnh gạo lợn do sán dây Taenia spp. gây ra ở lợn, được tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO) xếp hạng nguy hiểm nhất trong các bệnh ký sinh trùng truyền lây giữa động vật và người qua thực phẩm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe cộng đồng, kinh tế xã hội và thương mại.

1. TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Bệnh gạo lợn (Porcine Cysticercosis) do ấu trùng Cysticercus cellulosae (C. cellulosae)gây ra , ấu trùng tạo thành các kén ký sinh ở cơ vân, não ở lợn và ở người. Kén trông giống như hạt gạo nếp nên gọi là “ Bệnh  gạo lợn”.C. cellulosae là ấu trùng của loài sán dây Taenia solium. Sán trưởng thànhký sinh ở ruột non của người. Ngoài ra, ấu trùng C. cellulosaecòn ký sinh ở lợn rừng, chó và  khỉ  (Fan,1988; Wandra et al., 2015). Ở người, ấu trùng sán Taenia soliumký sinh ở cơ vân, cầu mắt, cơ tim và não.

Ấu trùng C. Cellulosae có hình bầu dục, giống hạt gạo, kích thước mỗi ấu trùng khoảng 2 x 1,6 đến 8,6 x 3,8 mm, tỷ lệ chiều dài/rộng là 1,7/1; mỗi ấu trùng cấu tạo bên ngoài là lớp màng mỏng, bên trong chứa dịch trong; đầu sán màu trắng lộn vào trong, có 2 hàng móc, mỗi hàng có 11 – 16 móc (Fan, 1988).

Sán dây Taenia solium có chiều dài biến đổi từ 1,5 m – 8 m, gồm 700 đến 1000 đốt . Đốt sán màu trắng đục ngả vàng. Đốt trưởng thành chứa trung bình 446 tinh hoàn, buồng trứng được chia làm 3 thùy. Đốt sán chứa 5 – 11 nhánh tử cung, lỗ sinh dục đổ ra một bên (Fan, 1988). Đốt đầu gồm 4 giác bám có hai hàng móc, mỗi hàng gồm 11 – 16 móc; móc lớn dài 0,14 – 0,2 mm; móc nhỏ dài 0,09 – 0,16 mm (Loos – Frank, 2000).






Bệnh gạo lợn và sán dây Taenia solium phân bố ở tất cả các châu lục; lưu hành với tỷ lệ cao, hình thành các ổ dịch địa phương tại các nước phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh, đặc biệt là những nơi người dân có điều kiện kinh tế kém phát triển, có phong tục nuôi lợn thả rong, ăn thịt lợn tái, sống.

Tại Việt Nam, bệnh gạo lợn và sán dây phân bố 50/63 tỉnh thành trong cả nước. Các nghiên cứu trước năm 1990 cho biết tỷ lệ nhiễm gạo lợn biến đổi tùy theo vùng miền và giảm dần theo thời gian nghiên cứu. Những năm đầu thế kỷ 21, tỷ lệ lợn và người nhiễm gạo giảm rõ rệt với 1 – 7,2% ở người và 0,03 – 0,9% ở lợn (Somers và cs., 2006; Van De và cs., 2014).

II. VÒNG ĐỜI

Sán trưởng thành sống trong ruột non của vật chủ là người, chó và mèo, các đốt sán chứa đầy trứng, già thì rụng, theo phân ra ngoài tự nhiên rồi vỡ, giải phóng hàng vạn quả trứng, lợn và người ăn phải trứng sán dính vào rau xanh hay cỏ trong ao hồ.Trứng sán vào ruột sẽ nở thành ấu trùng,xuyên qua niêm mạc ruột, vào máu rồi di hành đến các nội tạng của vật chủ như gan, não,cơ tim,gốc lưỡi, cơ hoành cách, cơ mông, vai để tạo ra các nang ấu trùng.Nang ấu trùng có màu trắng đục kích thước 5-10×5-20mm trông giống hạt gạo nếp, trong nang có đầu ấu trùng và hàng móc bao quanh.Thời gian từ khi trứng nở đến khi hình thành ấu trùng trung bình là 60 ngày, ấu trùng có thể sống tại đó tối thiểu là một năm, dài nhất là 3- 6 năm mới chết và tạo ổ can xi hóa.

Người và các loài thú ăn thịt sống có mang ấu trùng sán sẽ bị nhiễm. Ấu trùng vào đến dạ dày, xuống ruột non sẽ ra khỏi nang phát triển thành sán dây trưởng thành sau khoảng 2 tháng nữa.

III. BỆNH LÝ LÂM SÀNG

3.1.BỆNH Ở ĐỘNG VẬT

Lợn nhiễm ấu trùng C. Cellulosae hầu như không biểu hiện rõ triệu chứng lâm sàng; chỉ khi lợn bị nhiễm nặng mới có một số biểu hiện thoáng qua của triệu chứng thần kinh và khó khăn trong vận động. Lợn có ấu trùng ký sinh ở não có một số triệu chứng không điển hình như: lười vận động, biểu hiện chậm chạp, thẩn thờ, rối loạn vận động nhẹ (Abuseir & cs., 2006).

Ấu trùng C. Cellulosae có thể tìm thấy ở não, cơ đùi, cơ liên sườn, cơ hoành, cơ lưỡi, cơ bụng, cơ tim, cơ cổ, màng treo ruột, bề mặt gan  và ở dạng còn sống hay can xi hóa. Tuy nhiên, các cơ quan có thể tìm thấy ấu trùng C. Cellulosae với tần suất cao là cơ lưỡi, cơ hoành, cơ đùi và não. Đây là những vị trí bắt buộc trong kiểm tra gạo lợn tại các cơ sở giết mổ.

Các ấu trùng thoái hóa có dạng canxi hóa khô hay hóa ướt (dạng phomat); vùng viêm xung quanh mở rộng với các tế bào lympho, bạch cầu ái toan và đại thực bào (Fleury et al., 2015; Mkupasi et al., 2015).

3.2. BỆNH Ở NGƯỜI

3.2.1. Bệnh do Sán dây lợn trưởng thành

3.2.1.1. Nguyên nhân: do người ăn phải thịt “lợn gạo” còn sống thì ấu trùng sán vào ruột nở ra sán dây trưởng thành.



3.2.1.2. Triệu chứng lâm sàng

Bệnh thường không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng rõ rệt, một số trường hợp có biểu hiện lâm sàng: đau bụng, đau tức vùng thượng vị, rối loạn tiêu hóa hoặc có triệu chứng thần kinh (suy nhược); dấu hiệu chính là thấy đốt sán ra theo phân, những đoạn nhỏ, dẹt, trắng ngà như sơ mít, đầu sán bằng phẳng và một số trường hợp có trứng sán trong phân được phát hiện.

3.2.1.3.Chẩn đoán

Phát hiện kháng nguyên trong phân bằng kỹ thuật Elisa.

Soi phân tìm đốt sán trưởng thành, hoặc tìm trứng sán.

3.2.2. Bệnh do ấu trùng sán lợn

3.2.2.1. Nguyên nhân gây bệnh:

Người bị bệnh do ăn phải trứng sán dây lợn, trứng vào dạ dày và ruột nở ra ấu trùng, ấu trùng xuyên qua thành ống tiêu hóa vào máu và di chuyển đến ký sinh ở các cơ vân, ở não, ở mắt… Những người bị nhiễm sán dây lợn trưởng thành trong ruột, khi đốt già rụng, do phản nhu động ruột mà đốt sán trào ngược lên dạ dày. Trường hợp này coi như là ăn phải trứng sán dây lợn với số lượng vô cùng lớn từ đốt sán và số nang ở người cũng rất nhiều.

Bệnh ấu trùng sán lợn (Cysticercosis) là do những ấu trùng sán lợn ký sinh ở trong cơ, trong não, trong mắt người gây nên.



3.2.2.2. Triệu chứng

Ấu trùng sán thường hình thành nang ấu trùng có thể thấy bất cứ nơi nào trong cơ thể  bệnh nhân.

Tùy theo số lượng nang ấu trùng và vị trí của nang mà người bệnh có biểu hiện lâm sàng nặng, nhẹ khác nhau hoặc có thể gây tử vong.

Bệnh có thể xuất hiện với những triệu chứng khác nhau.

Tại não: cũng tùy thuộc vị trí ấu trùng cư trú mà triệu chứng biểu hiện cũng khác nhau, như: động kinh, liệt, nói ngọng, rối loạn ý thức và có những cơn nhức đầu dữ dội (tăng áp lực nội sọ).

Khi ấu trùng cư trú ở mắt sẽ có nang trong mí mắt, hốc mắt, kết mạc. Tùy vị trí nang sán mà có các triệu chứng như chèn ép sau nhãn cầu, tăng nhãn áp, giảm thị lực, chảy nước mắt, song thị, mù.

Ấu trùng cư trú ở cơ vân: xuất hiện các nang dưới da với kích thước 0,5 – 2 cm, di động dễ dàng, không ngứa; nang thường ở bắp tay, chân hoặc cơ liên sườn, cơ lưng, ngực; các nang này có thể gây ra triệu chứng máy, giật cơ, đau đầu mạn tính.

Nang ấu trùng ở cơ tim có thể làm tim đập nhanh, tiếng tim biến đổi, người bệnh có dấu hiệu khó thở, ngất xỉu.

3.2.2.3. Chẩn đoán

Sinh thiết các nang dưới da tìm ấu trùng sán.

Chụp cắt lớp (CT Scanner) não tìm các hình ảnh đặc hiệu (các nang sán là những nốt dịch có chấm mờ, kích thước 3 – 5 mm, đôi khi nang lớn có kích thước đến 10 mm, rải rác có nốt dạng vôi hóa), chụp cộng hưởng từ MRI cho hình ảnh rõ hơn.

Chẩn đoán huyết thanh học ELISA phát hiện kháng thể và kháng nguyên ấu trùng trong huyết thanh bệnh nhân.

Một số trường hợp nhức sau nhãn cầu, tăng nhãn áp, giảm thị lực nếu nghi ngờ ấu trùng ở ổ mắt thì nên soi đáy mắt để xác định.

Xét nghiệm công thức máu toàn phần, thấy bạch cầu ái toan (EOS) tăng.

4. PHÒNG BỆNH, KIỂM SOÁT VÀ ĐIỀU TRỊ

4.1. Phòng bệnh, kiểm soát và điều trị ở động vật

4.1.1. Phòng bệnh

Thực hiện việc kiểm soát giết mổ đúng quy trình tại các cơ sở giết mổ nhằm đảm bảo không có lợn gạo được đưa ra thị trường tiêu thụ; nếu phát hiện thân thịt có gạo phải tiêu hủy.

Lợn cần được nuôi nhốt; chuồng trại cần xây dựng cách biệt với khu vệ sinh của con người. Thực hiện việc tiêm phòng ngừa bệnh gạo cho lợn.

4.1.2. Trị bệnh

Việc sử dụng thuốc điều trị gạo lợn chưa được phổ biến; tuy nhiên một số hóa dược có thể được sử dụng như: albendazole, praziquantel hay oxfendazole. Trong đó oxfendazole cho hiệu quả điều trị cao nhất. Các thí nghiệm cho thấy sử dụng oxfendazole liều lượng 30 – 50mg/kgP có thể tiêu diệt hoàn toàn ấu trùng C.cellulosae sau 8 – 12 tuần (Gonzales & cs., 1996; Gonzalez & cs., 1997; Mkupasi & cs., 2013).

4.2. Phòng bệnh, kiểm soát và điều trị ở người

4.2.1. Điều trị

Nguyên tắc điều trị:

Điều trị sớm: cần thiết chẩn đoán sớm và điều trị ngay khi phát hiện có đốt sán ra theo phân để tránh những biến chứng.

Không nên điều trị bằng thuốc đông y, thuốc nam hoặc các thuốc cổ điển vì dễ xảy ra biến chứng nguy hiểm.

Điều trị bệnh ấu trùng sán lợn nên điều trị ở các cơ sở có trang bị phương tiện cấp cứu tốt, có bác sĩ chuyên khoa theo dõi.

4.2.2. Phòng bệnh và kiểm soát

– Đối với bệnh do sán dây lợn trưởng thành: không ăn thịt lợn, gan lợn chưa nấu chín, không ăn các món ăn  như: nem, thính, nem chua, thịt lợn tái, gan tái;             

– Đối với bệnh ấu trùng sán dây lợn (Gạo lợn): không ăn rau sống, uống nước lã, quản lý phân, chất thải , nhất là phân của người bị nhiễm sán dây lợn; phát hiện và điều trị sớm những người bị mắc sán dây, xử lý những con sán được tẩy ra để ngăn ngừa mắc bệnh ấu trùng sán dây theo cơ chế tự nhiễm.

– Các ngành chức năng phải kiểm tra chặt chẽ quy trình giết mổ, kiểm tra phát hiện và loại bỏ ngay các con vật mang ấu trùng sán; sử dụng hố xí hợp vệ sinh, không để lợn thả rông ăn phân người. Không được xả phân lợn tươi ra môi trường mà phải  ủ để diệt đốt sán và trứng sán.

Nguồn: PGS.TS.Nguyễn Bá Hiên

Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Blogger Templates