Đây là một trong những bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên heo, xảy ra khá phổ biến ở tất cả các nước, gây thiệt hại nặng cho ngành chăn nuôi. Người nuôi cần nắm rõ về bệnh để có cách phòng chống có hiệu quả.
Nguyên nhân
Bệnh do Actinobacillus pleuropneumoniae (APP) gây ra hay còn
gọi là bệnh viêm phổi - màng phổi. Bệnh xảy ra ở heo mọi lứa tuổi, nhưng thường
nhiễm ở heo từ 2 - 6 tháng tuổi; đôi khi gây xuất huyết trên heo nái và hậu bị.
Triệu chứng
Thể quá cấp tính:
Heo sốt cao (40,5 - 41,50C), uể oải, mệt mỏi. Heo bệnh có một thời gian ngắn bị
nôn mửa và tiêu chảy, chảy nhiều nước dãi, nước mũi nhiều bọt, có thể lẫn máu.
Heo khó thở, tần số mạch tăng. Da ở vùng mũi, tai, chân và sau đó toàn cơ thể có
màu tím xanh. Heo bệnh chết nhanh chóng trong vòng 24 - 36 giờ.
Thể cấp tính: sốt
cao (40,5 - 410C), da có nốt đỏ, heo bỏ ăn, lười vận động, lười uống nước. Heo
có triệu chứng hô hấp như khó thở, ho, đôi khi phải há mồm ra để thở. Rối loạn
nhịp tim và hệ tuần hoàn.
Thể mãn tính: Heo
thường không sốt hoặc sốt nhẹ, ho liên tục hoặc ho ngắt quãng. Heo bỏ ăn, khả
năng tăng trọng giảm. Khi phải vận động, heo bệnh thường tụt lại phía sau đàn,
nếu bắt buộc cũng sẽ cố gắng một cách rất yếu ớt.
Bệnh tích
Phổi thường bị viêm có tính chất đối xứng, gồm thùy tim,
thùy đỉnh và một phần thùy hoành. Trường hợp heo chết ở thể quá cấp tính, vùng
phổi bị viêm thường có màu đen, cứng, không hoặc ít khi viêm màng phổi có
fibrin, bề mặt cắt của phổi nát. Thể cấp tính, bệnh tích đặc trưng là viêm màng
phổi có fibrin, xoang bao tim chứa đầy dịch lẫn máu.
Bệnh tiến triển khiến cho các sợi fibrin nhiều có thể bám chắc
làm viêm dính màng phổi với thành lồng ngực. Hạch lâm ba bị teo nhỏ, đặc biệt ở
thùy hoành. Giai đoạn đầu, biến đổi bệnh tích vi thể chủ yếu là hiện tượng hoại
tử, xuất huyết và thâm nhiễm tế bào đa nhân trung tính, đại thực bào và tiểu
huyết cầu. Ngoài ra còn thấy hiện tượng nghẽn mạch, phù thũng lan tràn và dịch
thủy thũng có nhiều fibrin.
Phòng bệnh
Người nuôi nên chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học. Ngăn
chặn sự xâm nhập của vi khuẩn bằng cách mua heo ở những cơ sở giống an toàn dịch
bệnh, có nguồn gốc lý lịch rõ ràng, nuôi cách ly và tiêm phòng trước khi nhập
đàn. Chuồng trại chăn nuôi phải đảm bảo cách ly với các khu vực khác, phải có
hàng rào ngăn không cho súc vật, các loài gặm nhấm và hạn chế côn trùng ra vào
trang trại. Đầu chuồng, đầu trại phải có hố sát trùng, tiêu độc.
Toàn bộ công nhân chăn nuôi, nhân viên kỹ thuật, khách tham
quan, phương tiện vận chuyển ra vào trang trại phải được vệ sinh, tiêu độc khử
trùng và mặc bảo hộ lao động... Định kỳ lấy mẫu xét nghiệm vi khuẩn. Phân, nước
tiểu, chất thải trong chăn nuôi phải được thu gom xử lý bằng các phương pháp
thích hợp. Kiểm soát tốt các nguồn nguyên vật liệu khi đưa vào trang trại...
Chăn nuôi với mật độ hợp lý. Tránh sự tiếp xúc trực tiếp giữa các đàn heo ốm và
đàn heo khỏe mạnh vì dù con vật đã trở lại bình thường nhưng mầm bệnh vẫn tồn tại
và là nguồn lây bệnh cho con khác trong đàn. Cần định kỳ tiêm phòng vaccine
phòng bệnh cho heo.
Trị bệnh
Sử dụng enrofloxacin, ceftiofur hoặc tilmicosin để điều trị
bệnh. Liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Để giảm tỷ lệ chết, cần tiến
hành điều trị heo bệnh càng sớm càng tốt vì kháng sinh chỉ có tác dụng điều trị
trong giai đoạn đầu của bệnh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét